Thuốc bảo vệ thực vật có phải ‘tội đồ’ của an toàn thực phẩm?

Ở Việt nam, thuốc bảo vệ thực vật vẫn đang bị coi là tội đồ, nguyên nhân gây ra mọi hậu quả xấu trong nông nghiệp, gây mọi bệnh nan y. Thuốc bảo vệ thực vật đang bị gán những tội mà chúng không có?

Tại buổi tọa đàm “An toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp qua góc nhìn báo chí và truyền thông” do báo Kinh tế và Đô thị, Hiệp hội Nhà sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường Việt Nam tổ chức, nhiều chuyên gia nông nghiệp đã trình bày quan điểm khác nhau về vấn đề thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong sản xuất nông nghiệp.

Theo ước tính của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc, tổn thất mùa màng do sinh vật hại cây trồng trên toàn thế giới chiếm khoảng 40%, và việc sử dụng thuốc BVTV giúp giảm thiệt hại từ 35-42%.

Thuốc BVTV là nghiên cứu khoa học quan trọng giúp ngăn chặn và kiểm soát các dịch hại trên cây trồng, đồng thời đóng góp vào việc bảo vệ cây trồng, nâng cao hiệu suất sản xuất nông nghiệp và mang lại hiệu quả kinh tế trên thế giới nói chung và tại Việt Nam một nước sản xuất nông nghiệp nói riêng.

Tuy nhiên, việc sử dụng sai cách, thiếu hiểu biết hoặc cố tình vi phạm để nhằm thu lợi bất chính đã gây hiểu lầm và nhầm lẫn về công dụng của các sản phẩm này.

Thuốc bảo vệ thực vật có phải 'tội đồ' của an toàn thực phẩm?- Ảnh 1.

Nhiều chuyên gia về nông nghiệp chia sẻ về thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp và an toàn thực phẩm. Ảnh: Cẩm Viên.

Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hội doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV (VIPA), thời gian nghiên cứu và đưa một loại thuốc bảo vệ thực vật mới ra thị trường có thể mất hơn 11 năm với những đánh giá nghiêm ngặt nhất và đòi hỏi một nguồn kinh phí khoảng 283 triệu USD.

Ông Sơn khẳng định thuốc BVTV đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nhưng người dân sử dụng sai cách, sai kỹ thuật, lạm dụng và thiếu kiểm soát, gây mất ổn định môi trường đất, ô nhiễm nguồn nước và đất, dư lượng thuốc trên nông sản gây độc hại cho con người và động vật, gây mất cân bằng tự nhiên và suy giảm tính đa dạng sinh quần. Đồng thời, lạm dụng thuốc BVTV cũng có thể tạo ra các loài sinh vật gây hại mới, chống lại thuốc và gây ra các vấn đề khác trong hệ sinh thái.

Ở Việt nam, thuốc BVTV vẫn đang bị coi là tội đồ, nguyên nhân gây ra mọi hậu quả xấu trong nông nghiệp. Một số người đã thổi phồng việc dư lượng thuốc BVTV trên nông sản là nguyên nhân gây mọi bệnh nan y (đặc biệt bệnh ung thư). Họ gán cho thuốc BVTV những tội mà chúng không có. Nguy hiểm hơn là xu thế bài xích thuốc BVTV, đặc biệt là thuốc BVTV hóa học.

“Để hạn chế sinh vật gây hại, người ta còn định thay thế hoàn toàn bằng thuốc BVTV sinh học. Nhưng thuốc BVTV sinh học vẫn có hạn chế, không thể thay thế hoàn toàn thuốc hóa học và thậm chí còn khó phân hủy trong đất. Và mọi người đang nhầm lẫn giữa thuốc BVTV sinh học và các chế phẩn sinh học hay phân thuốc hữu cơ”, ông Sơn cho biết.

Theo ông Sơn, để nông nghiệp phát triển bền vững, quan trọng hơn là việc thảo luận về việc “nên hay không nên” sử dụng thuốc BVTV hóa học, là việc nên sử dụng thuốc BVTV như thế nào để phát huy hiệu quả kinh tế và kỹ thuật cao nhất, đồng thời đảm bảo an toàn tuyệt đối cho con người, vật nuôi và môi trường.

Ông Sơn nhấn mạnh, trước khi một loại thuốc BVTV mới được đưa vào sử dụng, các nhà sản xuất phải vượt qua các đánh giá nghiêm ngặt về hiệu suất, an toàn thực phẩm, và ảnh hưởng đối với sức khỏe con người và môi trường.

Ngoài ra, các nghiên cứu đã khẳng định rằng sử dụng đúng cách, thuốc BVTV không gây ra các vấn đề như ung thư hay các bệnh nguy hiểm khác. Các nghiên cứu trên nhóm công nhân nông nghiệp, bao gồm những người sử dụng thuốc BVTV, cho thấy rằng sức khỏe của họ thường tốt hơn so với các nhóm dân số khác; tỉ lệ mắc ung thư thấp và tuổi thọ cao hơn so với những người không phải là nông dân.

Hiện nay, hầu hết các loại thuốc BVTV quá độc hại đã bị cấm và loại khỏi danh mục thuốc BVTV được sử dụng ở Việt Nam để đảm bảo an toàn cho con người và môi trường.

Còn theo ông Đặng Văn Bảo, Chủ tịch Croplife, thuốc bảo vệ thực vật là một phát minh khoa học quan trọng trên thế giới, giúp bảo vệ cây trồng khỏi tác nhân gây dịch bệnh với hướng dẫn và liều lượng cụ thể. Nhiệm vụ của nông dân là sử dụng chúng đúng cách.

Croplife cùng nhiều đối tác quốc tế đã triển khai nhiều chương trình tập huấn cho nông dân về vai trò của thuốc BVTV và sử dụng thuốc một cách an toàn, hiệu quả kinh tế tại Việt Nam. Các chương trình này được tiến hành thường xuyên và liên tục đổi mới cách tiếp cận, đảm bảo phù hợp với nhu cầu cụ thể của nông dân từng khu vực và tuân thủ các quy định hiện hành.

Ông Bảo cũng khẳng định rất nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng thuốc BVTV đúng cách, cách ly đủ ngày vẫn có thể xuất khẩu nông sản sang nhiều nước khó tính như Mỹ.

Nông nghiệp hữu cơ “lên ngôi”

Theo ông Nguyễn Văn Sơn, nông nghiệp hữu cơ là xu hướng không thể tránh khỏi và chính phủ đang thực hiện nhiều giải pháp chiến lược phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững và có giá trị cao.

Để chuyển sang một hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững hơn, nông dân cần được tiếp cận những giải pháp canh tác tiên tiến, sử dụng chúng có trách nhiệm và hiệu quả. Đồng thời, cần phải có khung pháp lý phù hợp để khuyến khích ứng dụng các giải pháp BVTV mới và duy trì sản phẩm BVTV hiện có theo cách bền vững.

Theo TS. Nguyễn Đăng Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn nông nghiệp nhiệt đới, Việt Nam hiện cũng đang là một mắt xích quan trọng trong nền sản xuất lương thực toàn cầu, hệ thống pháp lý của nước ta cũng cần hài hoà với những tiêu chuẩn và thực hành quốc tế để đảm bảo tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam

Với có kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế xanh, ông Nghĩa cho rằng nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu mà ngành nông nghiệp Việt Nam phải theo đuổi để phát triển bền vững và hiệu quả.

Thuốc bảo vệ thực vật có phải 'tội đồ' của an toàn thực phẩm?- Ảnh 2.

Nhiều doanh nghiệp đang đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ.

Theo ông Nghĩa, cuộc cách mạng xanh khởi đầu từ hơn 4 thập kỷ qua đã mang lại bước đột phá về năng suất và sản lượng trong nông nghiệp, nhưng cũng đi kèm với sự gia tăng nhanh chóng của mức độ ô nhiễm môi trường do sử dụng ngày càng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc phòng trừ bệnh hại cây trồng và các nhóm thuốc trừ cỏ dại.

Hiện nay, đa phần đất đai ở Việt Nam có đặc điểm phản ứng chua (pH < 6,0), nghèo các dạng dinh dưỡng đa lượng và trung lượng, đặc biệt là các chất dễ tiêu. Nhiều vùng đất bị thoái hóa, giảm sức sản xuất và xuất hiện nhiều yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất cây trồng.

Cân bằng dinh dưỡng không ổn định và đang chuyển dịch theo hướng mất cân bằng dinh dưỡng trong đất, tạo ra nhiều khó khăn cho sự phát triển của cây trồng đặc biệt theo hướng hữu cơ. Đồng thời, cũng xuất hiện nhiều dịch hại trong đất và trên cây trồng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của hệ sinh thái nông nghiệp.

Như vậy, rất khó có thể tìm được một diện tích đất trồng trọt có đủ tiêu chuẩn sạch để thỏa mãn được các yêu cầu và quy chuẩn của IFOAM, USDA và các tổ chức hữu cơ khác.

Sản lượng phân hữu cơ sản xuất tại Việt Nam còn quá nhỏ so với yêu cầu của sản xuất thực tiễn. Chưa nói đến đáp ứng cho nhu cầu của nông nghiệp hữu cơ mà mới đề cập đến việc bón phân cân đối giữa vô cơ và hữu cơ cho thấy, cứ bón 1 kg phân vô cơ thì cần bón 3 kg phân hữu cơ.

Như vậy, uớc tính mỗi năm ngành trồng trọt sử dụng gần 12 triệu tấn phân hóa học các loại thì phải cần đến 36 triệu tấn phân hữu cơ các loại. Hiện tại chúng ta mới đáp ứng được gần 3 triệu tấn phân hữu cơ các loại (theo số liệu về sản lượng phân hữu cơ của các doanh nghiệp sản xuất phân hữu cơ của Việt Nam tính đến tháng 6/2017).

Điều này có nghĩa, nếu đáp ứng được nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam thì cần phải có chiến và sách lược cho tiến độ sản xuất và cung ứng đầy đủ các chủng loại và sản lượng phân hữu cơ.

“Chính phủ cần sớm có Nghị định và chính sách mang tính đột phá dành cho việc phát triển nông nghiệp hữu cơ và cũng nên có sự khác biệt giành riêng cho từng đối tượng như nông dân; nhà đầu tư; doanh nghiệp nông nghiệp”, TS. Nguyễn Đăng Nghĩa kiến nghị.

Mặt khác, theo TS. Nguyễn Đăng Nghĩa cũng cần khuyến khích các bếp ăn tập thể, căng- tin, các nhà hàng, trường học, bếp quân đội sử dụng nông sản, thực phẩm, rau quả hữu cơ. Nếu cần thiết cũng có thể trợ giá thêm cho nông sản hữu cơ giống như một số quốc gia đã làm.

Việt Nam cần sớm có một hệ thống chứng nhận có tính pháp lý, uy tín và đáng tin cậy được nước ngoài chấp nhận. Như vậy, thuận lợi cho việc xuất khẩu nông sản và mở rộng thị trường. Tham gia với tư cách thành viên của hệ thống NETWORK về sản xuất hữu cơ của thế giới và khu vực như IFOAM; IFFOAM ASIA; ALGOA.

Muốn sản xuất nông nghiệp hữu cơ thì cũng cần phải có quy hoạch vùng, gianh giới cho các diện tích nông nghiệp hữu cơ để tránh nhiễm bẩn chéo từ các khu sản xuất nông nghiệp truyền thống và ô nhiễm bởi các nhà máy trong các khu công nghiệp. Các hệ thống thông tin, tuyên truyền từ Trung ương tới địa phương cũng cần thông hiểu cho đúng để kịp thời phổ biến cho mọi người biết về nông nghiệp hưu cơ.

VIÊN VIÊN
https://cungcau.vn/thuoc-bao-ve-thuc-vat-co-phai-toi-do-cua-an-toan-thuc-pham-174231209062555601.htm