Đây là ý kiến được các đại biểu đưa ra tại hội nghị trực tuyến về thực trạng và giải pháp quản lý sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vùng trồng, cơ sở đóng gói nông sản tại Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra sáng nay (27/8).
Báo cáo tại hội nghị cho thấy, lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sử dụng hiện nay tại Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn trung bình của cả nước từ 35% đến 40%. Về sử dụng phân bón vô cơ, cả nước sử dụng trung bình 560kg/ha, còn tại Đồng bằng sông Cửu Long sử dụng đến 754 kg/ha gieo trồng. Cả nước hiện có hơn 24.000 sản phẩm phân bón; có 80% là phân bón vô cơ, khoảng 8.500 sản phẩm phân bón được lưu thông sử dụng trên thị trường….
Theo các đại biểu, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các nước nhập khẩu đều có xu hướng nâng cao quy định kỹ thuật về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm, vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các mặt hàng nông sản có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam phải tránh xu hướng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón. Giải pháp quan trọng cần ưu tiên trước mắt phải quản lý sản phẩm theo chuỗi để đảm bảo truy xuất nguồn gốc và quản lý chất lượng.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, cây rau màu là lợi thế rất lớn ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tuy nhiên việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lại có rất ít các nghiên cứu, điều tra, thống kê.
“Đề nghị lãnh đạo Bộ cho phép Cục Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt hoặc là Cục quản lý chất lượng nông lâm thủy sản có đánh giá chi tiết và cụ thể hơn nữa việc sử dụng các vật tư nông nghiệp cho sản phẩm rau. Chúng ta không chỉ đánh giá về các dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn đánh giá cả việc cần phải tiết kiệm trong sử dụng hơn nữa, cần minh bạch và có sự bền vững trong sản xuất”, ông Lê Thanh Tùng nêu ý kiến.
Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng, cần chú trọng nâng cao hiệu quả tập huấn cho từng nhóm đối tượng như: nhà quản lý, doanh nghiệp và nông dân về kiến thức liên quan đến sử dụng hợp lý và hiệu quả phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thiết lập và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói gắn liền với phát triển vùng nguyên liệu và chuỗi liên kết giá trị; khuyến khích áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất như “3 giảm, 3 tăng”, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, sử dụng các sản phẩm vật tư đầu vào thế hệ mới, thông minh, an toàn với môi trường để tạo ra các sản phẩm sạch, chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường nhập khẩu và các biện pháp xử lý kiểm dịch thực vật phù hợp với điều kiện và cơ sở hạ tầng sẵn có tại Việt Nam.
Khẳng định tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh đến sự minh bạch, trách nhiệm và bền vững trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp cũng như thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo đó, việc minh bạch công khai từ sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; trách nhiệm đối với người sản xuất, tiêu dùng và xã hội để phát triển bền vững không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn cho thế hệ tương lai 1 hệ sinh thái sinh học.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, các doanh nghiệp muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa phải đi cùng nhau. Trong giai đoạn hiện nay, phải thiết lập được hệ sinh thái hay liên minh của những doanh nghiệp có trách nhiệm đối với nền nông nghiệp, trách nhiệm đối với nông dân và trách nhiệm với thương hiệu quốc gia về nông sản.
“Chính những liên minh này cùng ngồi lại với các cơ quan quản lý nhà nước để hoạch định Chiến lược phát triển lâu dài, làm sao để những mô hình tốt trên thực tế đã và đang triển khai sẽ lan tỏa trong suy nghĩ của nông dân rằng, không thể đi theo con đường cũ nữa mà cần vạch ra con đường mới để đi. Con đường này lúc đầu có thể khó khăn nhưng thực tế những mô hình đã và đang triển khai đã chứng minh hiệu quả. Như vậy, cùng với sự cộng hưởng giữa cơ quan quản lý nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, hội nông dân có trách nhiệm sẽ hình thành một hệ sinh thái để phát triển nông nghiệp bền vững”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh./.